Đền Vưu là một ngôi đền cổ xây dựng
năm vào đầu thế kỉ XVIII vào đời vua Hy Tông niên hiệu Chính Hoà (1705), hiện
đền toạ lạc tại xã Quỳnh Vinh, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An. Đền Vưu thờ Lý
Nhật Quang, hoàng tử thứ tám của vua Lý Thái Tổ. Trải qua hơn 300 năm tồn tại,
đền Vưu còn lưu giữ 13 sắc phong bản gốc, do vua Cảnh Thịnh (triều Tây Sơn); và
Tự Đức, Thành Thái, Đồng Khánh, Khải Định (triều Nguyễn) sắc tặng. Sắcphong có
giá trị và ý nghĩa về văn hóa và lịch sử. Ở nghiên cứu này chúng tôi giới thiệu
về lịch sử của đền Vưu, và một số sắc phong hiện còn lưu giữ tại đền. Qua đó,
cho thấy ý nghĩa và giá trị lịch sử của đền Vưu trong tiến trình phát triển
kinh tế-xã hội hiện nay.
Từ
khoá: đền Vưu, sắc phong, di tích, dấu ấn.
1. LỊCH SỬ ĐỀN VƯU
1.1. Nhân thần thờ tại đền Vưu
Đền Vưu thờ Lý Nhật Quang, ông sinh năm 998-1057, húy là
Lý Hoảng, con trai thứ tám của Lý Công Uẩn, mẹ là Trinh minh Hoàng hậu Lê Thị,
ông là anh em cùng cha khác mẹ với Lý Thái Tông. Năm 1041 ông được cử vào làm
tri châu vùng biên viễn Hoan Châu lúc bấy giờ, nay là tỉnh Nghệ An, và có nhiều
đóng góp về kinh tế- xã hội cho vùng đất này. Theo Phạm Viết Đào thì Lý Nhật
Quang nằm trong số ít danh nhân được lập đền thờ nhờ vào công trạng phát triển
kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội. Lý Nhật Quang được ghi chép trong cuốn Đại
Việt sử kí toàn thư- Lê Văn Hưu; Việt điện u linh- Lý Tế Xuyên; Việt Nam sử
lược…và cho đến nay, nhân dân địa phương ở Nghệ An, Hà Tĩnh lập rất nhiều đền
thờ Lý Nhật Quang, cho thấy sức lan tỏa mạnh mẽ của Lý Nhật Quang trong văn hóa
cộng đồng.
Hàng năm Lễ Khai hạ được tổ chức vào ngày mồng Bảy tháng
Giêng âm lịch, để ghi nhớ công lao của Lý Nhật Quang.
1.2.
Lịch sử đền Vưu
Đền Vưu xây dựng vào năm 1706, do bà con hai làng Thọ
Vinh và Quý Vinh (nay thuộc xã Quỳnh Vinh, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An) góp
công, góp của xây dựng. Tuy nhiên, cảnh vật hữu tình và sự linh thiêng của đền
Vưu đã được nhắc đến vào thế kỷ XV. Đến nửa đầu thế kỷ XIX, lịch sử đền Vưu
được xã trưởng xã Thọ Mai (nay là xã Quỳnh Vinh), và xã trưởng xã Hoàng Mai
(nay là phường Quỳnh Thiện) ghi chép lại vào năm 1823 (năm Minh Mệnh thứ 3) như
sau:
Nguồn gốc về sự tích của một vị thần mà hai xã đang phụng
thờ tế tự là Tam tòa đại vương, con thứ tám của Lý Thái Tổ, được phong Uy Minh
Vương, ông được cử vào cai quản ở trấn Hoan Châu. Lúc đi kinh ký qua xứ Hoàng
Mai, thấy núi non trùng trùng điệp điệp, có sông uốn khúc chảy dài, phong cảnh
thật hữu tình, trong vùng có một Bưu đình nổi tiếng linh thiêng, cầu gì tất
được, danh này được truyền tụng khắp trong vùng (Do hai xã trưởng Lê Văn Trị
(xã Thọ Mai) và Lê Danh Thiện (xã Hoàng Mai) ghi chép lại vào ngày 25 tháng 6
năm 1823).
Vào năm 1841 (năm Minh Mạng 21) lịch sử và danh thắng của
đền Vưu do lý trưởng Lê Quỹ và Lê Lễ chép lại: Linh thần Tam tòa đại vương là
con thứ tám của Vua Lý Thái Tổ, phong là Uy Minh Vương, được cử vào cai quản ở
trấn Hoan Châu, lúc đi kinh ký qua Hoàng Mai, thấy núi non trùng điệp, sông dài
uốn khúc, phong cảnh hữu tình, trong vùng có một bưu đình nổi tiếng linh
thiêng, cầu tất ứng, bà con hai xã phụng thờ, tế tự. Năm 1471 Lê Thánh Tông dẫn
quân vào đánh Chiêm Thành, có đi qua đây và làm lễ mật bảo cầu, ngày chiến
thắng trở về, vua sắc phong cho thần là thượng đẳng thần. Các triều đại sau có
phong thêm Mệnh cung chính sát (do lý trưởng Lê Quỹ và Lê Lễ chép lại từ tú tài
Trần Tuyền, ngày 11 tháng 3 năm Minh Mạng 21).
Qua hai tư liệu trên, cho thấy đền Vưu đã được nhắc đến từ lâu, là nơi “danh
bất hư truyền” về sự linh thiêng và cảnh sắc xung quanh. Ngoài ra, đền Vưu gắn
liền với sự biến động lịch sử của vùng đất Hoàng Mai nói riêng và cả nước nói
chung. Thế kỉ XVIII khi các cuộc nội chiến giữa các tập đoàn phong kiến Việt
Nam diễn ra, nhằm tranh dành quyền lực và cát cứ. Lúc này, Hoàng Mai là địa
phương có vị trí chiến lược quân sự quan trọng đối với các tập đoàn phong kiến
trong việc tuyển quân và xây dựng trung tâm quân sự. Sang đầu thế kỉ 19, khi
nhà Nguyễn thống nhất lãnh thổ, lập nên nhà nước phong kiến chuyên chế. Các
chính sách quản lí về kinh tế, chính trị, văn hoá của triều Nguyễn đã tác động
mạnh mẽ đến đời sống xã hội của Việt Nam lúc bấy giờ. Trong đó, chính sách quản
lí văn hoá được thúc đẩy và quan tâm mạnh mẽ như phong tặng sắc phong, trùng tu
di tích như đình, đền, chùa... trên phạm vi cả nước. Lúc này, đền Vưu được vua
triều Nguyễn (Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải Định) sắc tặng. Chính sách quản
lí văn hoá của triều Nguyễn là một trong những cơ sở để đền Vưu bảo tồn, lưu
giữ di tích và tư liệu Hán Nôm cho đến ngày nay.
Đầu thế kỉ 20, nhân dân xã Quỳnh Vinh nói riêng và Hoàng Mai nói chung dưới
sự lãnh đạo của Đảng, đã tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp trường
kì. Thời kì kháng chiến chống Mỹ ác
liệt (1960-1970), đền Vưu bị tàn phá bởi bom đạn, được nhân dân và chính quyền
địa phương phục dựng và trùng tu.
Hiện nay, trong sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế xã hội, đền Vưu là nơi
sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân địa phương, được tổ chức và quản lí khá chặt
chẽ. Đền Vưu được chính quyền (xã Quỳnh Vinh, thị xã Hoàng Mai) cắt cử người
trông đền, để hương khói hằng ngày cho thần, vệ sinh quang cảnh của đền, phục
vụ người dân và khách thập phương đến dâng hương, hành lễ. Có thể nói, đền Vưu
là dấu ấn văn hoá của xã Quỳnh Vinh nói riêng và vùng Hoàng Mai nói chung, bởi
đền Vưu chứa đựng giá trị văn hóa sâu đậm về kiến trúc; Tư liệu sắc phong; Các
nghi lễ thờ thần. Như vậy, lịch sử hình thành và phát triển của đền Vưu suốt từ
thế kỷ XVIII cho đến nay (hơn 300 năm), nhưng được “quan tâm, lưu ý” từ giữa
thế kỷ XVI, khi vua Lê Thánh Tông đi chiêm phạt Chiêm Thành và đã ghé nơi đây.
Với ý nghĩa về lịch sử và văn hoá, năm 1992 đền Vưu được Bộ Văn hóa Thông tin công
nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.
2.
GIỚI THIỆU MỘT SỐ SẮC PHONG Ở ĐỀN VƯU
Khi chúng tôi bắt đầu sưu tầm tư liệu nghiên cứu về đền Vưu, rất vui mừng
khi đền vẫn lưu giữ 13 sắc phong bản gốc, được cất rất kĩ trong tráp thờ ở gian
hậu hiền. Nhận thấy rằng, đây là tư liệu Hán Nôm vô cùng quí giá, minh chứng
cho lịch sử của đền Vưu cũng như lịch sử của xã Quỳnh Vinh, thị xã Hoàng Mai,
tỉnh Nghệ An từ thế kỉ 18 cho đến nay. Sau khi khảo cứu, chúng tôi tiến hành
phiên âm, dịch nghĩa các sắc phong và chúng tôi là người đầu tiên công bố, giới
thiệu về các sắc phong ở đền Vưu (vào năm 2011). Số lượng 13 sắc phong cụ thể
như sau: 01 sắc phong triều vua Cảnh Thịnh 4 (1795); 01 sắc phong triều Tự Đức 33 (1880); 01 sắc
triều Đồng Khánh (1887); 01 sắc triều Thành Thái 2 (1890); 01 sắc triều Duy Tân
thứ 3 (1910); 03 sắc triều Khải Định năm thứ 2 (1918); 05 sắc triều Khải Định năm thứ 5 (1921).
Về hình thức chung, các sắc phong ở đền Vưu có kích thước 140cmx54cm, chữ
viết chân phương, dễ nhìn, rõ ràng, dễ đọc, số lượng chữ trên các sắc phong từ
80-100 chữ, tùy thuộc vào số lượng các mỹ tự phong cho các thần. Tuy nhiên, ở
mỗi triều đại thì cách bố cục, bài trí, kết cấu của các sắc phong là khác nhau,
thể hiện sự hội tụ hài hòa về tôn quyền cũng như thể chế thịnh trị của người
đứng đầu là Vua. Với sắc phong triều Cảnh Thịnh, nền sắc phong được kết hợp
tinh tế giữa hình rồng cuộn và các chấm bi nhỏ, có 4 chữ Thọ ở bốn góc của sắc
phong, xung quanh có các gợn mây nhỏ.
Với các sắc phong triều Nguyễn, nền văn bản sắc phong là hình rồng cuộn cùng
với các chấm bi bài trí cân đối, hài hòa, trên thân rồng có các gợn mây nhỏ,
tạo cảm giác uy hùng, vững chãi. Điểm đặc biệt của sắc phong triều Nguyễn là có
diềm bao xung quanh, “đó là những đường nét phác họa tạo điểm nhấn cho toàn bộ
khung văn bản. Các đường nét này không nhất quán với nhau trong tất cả các văn
bản sắc phong mà có sự thay đổi linh hoạt trong trang trí, phối hợp với các
trang trí khác trong khung văn bản để tạo nên sự hài hòa, nhằm đạt đến một mức
độ thẩm mỹ nhất định giữa cảm quan và nhận thức của con người” (Nguyễn Thị Xuân
Hiền. 2012).
Qua việc nghiên cứu, sưu tầm 13 sắc phong tại đền Vưu, có 01 sắc triều Khải
Định 5 không phải sắc tặng cho Lý Nhật Quang mà sắc tặng cho Ngọc Tiên công
chúa; 02 sắc phong năm Khải Định 2 được sắc tặng cho 2 thần. Lí do trên có thể
lí giải theo hướng: Theo ghi chép trong cuốn địa chí xã Quỳnh Vinh, trước đây xã
Quỳnh Vinh có 01 đền Vưu, 01 Đình làng và 01 Miễu bà. Nhưng vào năm 1965 -
1970, đình và miễu bị phá bỏ nên các sắc phong lưu giữ ở hai di tích này được
đem về cất giữ tại đền Vưu. Thậm chí các đồ tế tự ở hai di tích đó cũng bị huỷ.
Hiện nay, đền Vưu còn lưu giữ 13 sắc phong gốc từ các triều vua Cảnh Thịnh, Tự
Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải Định....đây là các sắc phong có giá trị lịch sử,
qua nội dung trên sắc phong hiểu rõ nguồn gốc ra đời của di tích, khẳng định
chủ quyền làng xã, khẳng định được tính chính thống của nhân vật lịch sử Lý
Nhật Quang. Ngoài ra, đền Vưu còn là nơi sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo của cộng
đồng làng xã.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi xin giới thiệu 04 sắc
phong: sắc triều Cảnh Thịnh; Tự Đức; Đồng Khánh; Thành Thái; bao gồm hình ảnh
sắc phong, chữ Hán, phiên âm và dịch nghĩa.
2.1. Sắc phong thời Cảnh Thịnh
2.2.
Sắc phong thời Tự Đức
2.3.
Sắc phong thời vua Thành Thái
2.4. Sắc phong thời vua Đồng Khánh
3.
KẾT LUẬN
Đền Vưu mang dấu ấn văn hoá và lịch sử của địa
phương, bởi kiến trúc, tư liệu sắc phong và là nơi chứng kiến sự biến chuyển
của lịch sử. Các giá trị về văn hóa và lịch sử của đền Vưu, minh chứng rằng xã
Quỳnh Vinh, thị xã Hoàng Mai là vùng đất cổ, có bề dày và truyền thống lịch sử
lâu đời. Việc bảo tồn, lưu giữ đền Vưu trong hơn 300 qua, thể hiện tinh thần
uống nước nhớ nguồn của người dân địa phương, và đền Vưu là nơi gắn kết, cố kết
cộng đồng cao. Mặc dù hình thành hơn 300 năm nhưng đền là nơi sinh hoạt tín
ngưỡng và là điểm hành hương của khách thập phương./.